Việt Nam là đất nước có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời và tiền tệ đã xuất hiện từ rất sớm. Theo dòng chảy của lịch sử, từ thời lập nước Văn Lang – Âu Lạc thì tiền tệ sơ khai đã bắt đầu xuất hiện dưới hình thái là những vật chất trung gian trao đổi như lúa gạo, vải, đá quý,…
Để bạn đọc có được cái nhìn tổng quát về đồng tiền Việt Nam, bài viết này 3Gang sẽ đưa bạn đọc đi tìm hiểu chi tiết qua từng thời kỳ đồng tiền Việt Nam thay đổi như thế nào, đồng tiền Việt Nam hiện nay được in ở đâu,… Mời bạn đọc theo dõi nội dung 3Gang thực hiện ngay dưới đây:
Đồng tiền Việt Nam là gì?
Đồng Việt Nam là đơn vị tiền tệ chính thức của nước Việt Nam và được thể hiện qua mã ISO là VND. Từ “đồng” có nghĩa là tiền trong tiếng Việt; nó được thêm vào từ trước hoặc sau tên quốc gia sẽ đề cập đến đơn vị tiền tệ của quốc gia đó. Ví dụ: đô la Mỹ sẽ là đồng Mỹ.
VND là viết tắt của đồng tiền Việt Nam. “Đồng” là tiền tệ quốc gia chính thức của Việt Nam. Đồng tiền Việt Nam được quản lý bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Đồng tiền Việt Nam lần đầu tiên được chính phủ Bắc Kỳ giới thiệu năm 1946, thay thế cho đồng piastra của Đông Dương. Ở miền Nam Việt Nam thì tiền đồng được in ra và vào ngày 22 tháng 9 năm 1975, sau khi Sài Gòn thất thủ và đồng tiền của vùng này được thay thế bằng tiền đồng mới.
Sau khi Việt Nam thống nhất vào ngày 3 tháng 5 năm 1978 thì tiền đồng cũng chính thức thống nhất.
VND đã thay thế tiền tệ trước đó vào năm 1978, tại một số thời điểm thì VND được chia nhỏ thành hao, nhưng chính vì hao không còn được chấp nhận đấu thầu hợp pháp nên lúc đó tiền đồng được coi là đơn vị nhỏ nhất của tiền tệ. VND do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành và chịu lạm phát nặng nề.
Lịch sử tiền Việt Nam
VND, viết tắt của đồng tiền Việt Nam, ký hiệu là: ₫.
Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập nên Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, với nhiệm vụ: phát hành giấy bạc, quản lý kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phục vụ phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với thực dân Pháp.
Chính phủ Bắc Việt( Trước đây có tên gọi là Việt Minh) đã cho giới thiệu tiền đồng làm đơn vị tiền tệ chính thức của mình vào năm 1946, thay thế đồng piastre Đông Dương của Pháp. Đồng tiền được định giá lại vào năm 1951 và 1959 với tỷ lệ theo thứ tự là 100 ăn 1 và 1000 ăn 1. Tương tự thì đồng tiền của miền Nam Việt Nam cũng bị chi phối bởi các tờ tiền piastre, sau đó được thay thế bằng tiền đồng vào năm 1953. Việc giải phóng Sài Gòn năm 1975 dẫn đến việc đổi tên đồng tiền miền Nam Việt Nam thành đồng giải phóng, tương đương với 500 đồng cũ.
Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975, nước ta bị phân chia thành hai miền Nam – Bắc, mỗi miền có một loại tiền riêng nhưng vẫn được gọi chung là “tiền đồng”. Sau thống nhất đất nước 30/4/1975, tiền đang lưu hành ở miền Nam Việt Nam mất giá và được đổi tên thành tiền giải phóng. Đến năm 1978, khi Nhà nước đã ổn định và thống nhất về tài chính, tiền Việt Nam tiếp tục thay đổi. Ở miền Bắc, 1 đồng giải phóng sẽ đổi được 1 đồng thống nhất và ở miền Nam 1 đồng giải phóng đổi được 8 hào thống nhất. Đồng thời khi đó Nhà nước cũng phát hành thêm các loại tiền 5 hào, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, 100 đồng.
Sự thống nhất của nước Việt Nam dẫn đến sự ra đời của một đồng vào năm 1978. Một đồng mới sẽ tương đương với 0,8 đồng miền Nam hoặc 1 đồng miền Bắc. Đồng Việt Nam được định giá lại vào ngày 14 tháng 9 năm 1985 và đồng mới có giá trị bằng 10 đồng cũ. Từ đây bắt đầu một thời kỳ lạm phát kéo dài trong hầu hết đầu những năm 1990.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phát hành tiền giấy năm 1978 với các mệnh giá sau: 5 đồng, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng và 50 đồng. Tờ tiền 2 đồng và 10 đồng được giới thiệu công khai vào năm 1980, sau đó vào năm 1981 là tờ 30 đồng và 100 đồng. Các tờ tiền đã bị thu hồi vào năm 1985 do lạm phát và bất ổn kinh tế, vì thế chúng dần mất giá trị.
Năm 1985, tiền giấy mệnh giá 5 hao, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng và 500 đồng được ra mắt. Do lạm phát kéo dài nên các tờ tiền tiếp theo là 200 đồng, 1.000 đồng, 2.000 đồng 5.000 đồng vào năm 1987, 10.000 đồng và 50.000 đồng vào năm 1990, 20.000 đồng năm 1991, 100.000 đồng năm 1994, 500.000 đồng năm 2003 và 200.000 đồng năm 2006.
Năm 1978 có đồng tiền nhôm với mệnh giá 1 hao, 2 hao và 5 hao, có từ năm 1976. Do hậu quả của lạm phát nên không tồn tại được lâu.
Từ năm 1986, những đồng tiền kỷ niệm bằng đồng, thiếc, cupronickel, bạc và vàng. Tuy nhiên chúng chưa bao giờ được đưa vào lưu hành.
Ngày 17 tháng 12 năm 2003, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã cho phát hành một loạt tiền tệ mới với các mệnh giá 200 đồng, 500 đồng, 1000 đồng, 2000 đồng và 5000 đồng, được đúc ở Phần Lan.
Đồng Việt Nam là một trong những đồng tiền có giá trị thấp nhất trên toàn thế giới do phải gánh chịu hậu quả rất nặng nề từ lạm phát.
Năm 2017, Bloomberg đưa tin Việt Nam bắt đầu chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang trung tâm sản xuất và lắp ráp thiết bị điện tử, đặc biệt với sự đầu tư lớn của Samsung Electronics của Hàn Quốc. Điều này giúp nền kinh tế tăng trưởng hơn 6% trong hai năm trước đó và trở thành một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất trên thế giới. Hơn nữa, báo cáo cho thấy trong khi các đồng tiền châu Á khác như đồng baht Thái Lan (THB) và đồng ringgit Malaysia (MYR) tăng giá, và đồng peso của Philippines (PHP) giảm giá trị, thì đồng Việt Nam là đồng tiền ít thay đổi và ổn định nhất đối với tiền tệ Châu Á.
Năm 2003, Việt Nam bắt đầu cho thay thế tiền giấy cotton bằng tiền polymer nhựa bởi nó sẽ giảm được chi phí in ấn.
Hiện tại, các loại tiền giấy mệnh giá 100 đồng, 200 đồng, 500 đồng, 1.000 đồng, 2.000 đồng, 5.000 đồng, 10.000 đồng, 20.000 đồng, 50.000 đồng, 100.000 đồng, 200.000 đồng và 500.000 đồng đang được lưu hành rộng rãi tại Việt Nam.
Ngoài việc lưu hành tiền giấy thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn hỗ trợ ổn định tiền tệ, điều tiết tất cả các hoạt động ngân hàng doanh nghiệp và xây dựng chính sách tài khóa ở Việt Nam.
Tiền Việt Nam qua các thời kỳ
Tiền polymer (2003 – Đến nay)
Hiện trên nay thế giới đã có 23 nước lưu hành đồng tiền dùng chất liệu polymer, trong đó có ba nước sử dụng toàn bộ tiền polymer trong hệ thống tiền tệ; một số nước dùng polymer cho một số mệnh giá; 6 nước hiện đang thử nghiệm tiền polymer dưới hình thức tiền lưu niệm.
Tiền polymer tại Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành vào năm 2003, có giá trị lưu hành song song với các đồng tiền cũ. Sự ra đời của đồng polymer với mục tiêu đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ về cơ cấu mệnh giá và chủng loại. Tiền polyme sở hữu nhiều ưu điểm như: khó có thể làm giả, độ bền rất cao, không thấm nước, thích hợp sử dụng trong các thiết bị hiện đại như ATM hay máy đếm tiền.
Tiền giấy giai đoạn 1990
Trước thời kỳ Việt Nam sử dụng tiền polymer là thời kỳ sử dụng các tờ tiền giấy cotton có mệnh giá 10.000 đồng và 20.000 đồng được in năm 1990, tờ 50.000 đồng được phát hành từ 15/10/1994 còn tờ 100.000 đồng từ ngày 1/9/2000.
Tiền xu cũng có một vài năm xuất hiện trên thị trường nhưng không phù hợp với phong cách tiêu tiền của người Việt Nam vì vậy nó nhanh chóng bị xếp thành loại vật dụng lưu niệm.
Tiền giấy những năm 1985
Năm 1985, trước diễn biến phức tạp của nền kinh tế và sự khan hiếm nặng nề tiền mặt trong thanh toán, Nhà nước công bố đổi tiền theo tỷ lệ 10 đồng thống nhất sẽ đổi được 1 đồng tiền mới phục vụ cho cuộc cách mạng về giá cả và lương. Ngân hàng quốc gia Việt Nam đã ban hành các loại tiền 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng.
Tiền giải phóng sau năm 1975
Sau thống nhất đất nước 30/4/1975, tiền lưu hành ở miền Nam bị mất giá và được đổi tên thành tiền giải phóng. Đến năm 1978, sau khi Nhà nước ổn định và thống nhất về tài chính thì tiền Việt Nam tiếp tục thay đổi. Ở miền Bắc, 1 đồng giải phóng đổi được 1 đồng thống nhất, ở miền Nam 1 đồng giải phóng đổi được 8 hào thống nhất. Đồng thời Nhà nước khi đó cũng cho phát hành thêm các loại tiền 5 hào, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, 100 đồng.
Tiền giấy do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành năm 1951
Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập ra Ngân hàng Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ cụ thể như sau: phát hành giấy bạc, quản lý kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với thực dân Pháp.
Từ đó tiền giấy do Ngân hàng quốc gia Việt Nam phát hành chính thức được đưa vào sử dụng rộng rãi. Khi đó 1 đồng ngân hàng đổi được 10 đồng tài chính (đồng Cụ Hồ), và gồm nhiều mệnh giá: 1, 10, 20, 50, 100, 200, 500, 1000, 5000.
Giấy bạc Cụ Hồ giai đoạn Cách mạng Tháng 8 năm 1945
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chính thức ra đời, tiền đồng cũng chính thức được in và được lưu thông để khẳng định chủ quyền của đất nước tự do. Bắt đầu từ thời điểm đó cho tới nay, chúng ta đã thay đổi tiền cả về hình thức, chất liệu cho đến mệnh giá.
Trước khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời, trên mỗi tờ tiền đều được in chữ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặt sau của tờ tiền thường được in các hình ảnh khác về giai cấp Nông – Công – Binh. Các con số ghi mệnh giá đều được viết theo đúng chuẩn số Ả- Rập hoặc bằng chữ Hán, Lào, Campuchia. Người Việt Nam lúc bấy giờ gọi tiền giấy là “giấy bạc Cụ Hồ”.
Giấy bạc Đông Dương – đây là tờ tiền giấy đầu tiên của Việt Nam
Tờ tiền giấy đầu tiên được lưu thông ở Việt Nam là đồng Đông Dương với mệnh giá 100 đồng bạc do người Pháp phát hành và lưu thông trong thời gian từ năm 1885 đến năm 1954. Trên tờ giấy bạc Đông Dương có in hình 3 thiếu nữ với trang phục truyền thống của 3 nước Lào, Campuchia và Việt Nam.
Tiền Việt Nam được in ở đâu ?
Nhìn vào những tờ tiền giấy và tiền Polymer mà mọi người dùng hằng ngày, nhiều người thường thắc mắc tiền này được in ở đâu, có phải do Việt Nam in hay do nước khác in? Thực tế thì tiền Việt Nam được xuất ra từ kho bạc Nhà nước Việt Nam nhưng tiền được in ra từ đâu thì hiếm ai biết được.
Có rất nhiều người cho rằng tiền Việt Nam được in ở nước ngoài mà không phải in trực tiếp trong nước. Thực tế thì tiền được in từ nhà máy in tiền quốc gia Việt Nam, trụ sở được đặt tại Phạm Văn Đồng, Hà Nội.
Chất liệu Polymer được đưa vào để in tiền Việt Nam vào năm 2003. Trước đó vào năm 1995, khi mà chất liệu Polymer được nhiều nước trên thế giới ưu tiên sử dụng để in tiền do có nhiều tính chất vật lý tốt thì Việt Nam đã cử người sang Úc và Singapore để học hỏi kinh nghiệm về in tiền trên chất giấy nên Polymer.
Hiện nay, Nhà máy in tiền quốc gia Việt Nam đã hoàn toàn tự chủ được về vấn đề in tiền Polymer mà không cần hỗ trợ kỹ thuật từ Australia và tiền Polymer Việt Nam đang là loại tiền có độ bảo an cao và khó làm giả.
Quy trình nhà máy sản xuất tiền như thế nào?
Để một tờ tiền ra đời, bất kể là tiền giấy cotton hay Polymer thì phải trải qua rất nhiều công đoạn.
Quy trình in tiền polymer xuất hiện đầu tiên vào năm 1988 tại Australia, rồi lan dần ra các nước. Tiền polymer thông thường có cấu tạo 3 lớp, gồm một lớp phim, một lớp giấy nền và một lớp phủ mờ cùng vecni.
Tại Australia, lớp phim của tiền polymer được tạo ra bằng cách làm nóng chảy nhựa tổng hợp gốc dầu mỏ và thổi vào luồn khí nén áp suất lớn để tạo ra lớp màng nhựa dạng bong bóng. Sau khi hút bỏ không khí thì màng nhựa sẽ được cán phẳng thành phim trong suốt. Lớp nền sẽ được in lên phim với hoa văn, họa tiết đặc trưng và riêng biệt của từng quốc gia.
Ví dụ: Tờ 100.000 đồng của Việt Nam được in hình ảnh Khuê Văn Các – Văn Miếu Quốc Tử Giám trên nền xanh lá cây.
Cuối cùng, sau khi tờ tiền đã có họa tiết thì sẽ được phủ một lớp mờ và vecni để bảo vệ phần mực in.
Hiện nay, tiền polymer là loại tiền duy nhất có sử dụng công nghệ cao để cài đặt hình ẩn là yếu tố chống làm giả.
Tiền của Việt Nam được in bằng những chất liệu gì ?
Chất liệu giấy cotton:
- Tiền giấy cotton không phải là loại giấy thông thường bởi giấy thông thường có khả năng hấp thụ nước dễ dàng và nhanh hỏng.
- Thay vào đó, tiền giấy cotton sẽ sử dụng khoảng 80% cotton (hay sợi bông) để đảm bảo độ bền.
Chất liệu Polymer:
- Tiền Polymer có cấu tạo 3 lớp: lớp phim, lớp giấy nền, lớp phủ mờ vecni. Hiện nay, tiền polymer là loại tiền duy nhất được trang bị yếu tố chống giả đặc trưng nhờ sử dụng công nghệ cao để cài hình ẩn.
Thời gian ra đời của các tờ tiền Polymer ở Việt Nam
- Tiền polymer mệnh giá 10.000 đồng được phát hành vào ngày 15 tháng 8 năm 2005
- Tiền polymer mệnh giá 20.000 đồng được phát hành vào ngày 17 tháng 5 năm 2006
- Tiền polymer mệnh giá 50.000 đồng được phát hành cũng vào năm 2006
- Tiền polymer mệnh giá 100.000 đồng được phát hành vào ngày 01 tháng 9 năm 2004
- Tiền polymer mệnh giá 200.000 đồng được phát hành vào ngày 30 tháng 8 năm 2006
- Tiền polymer mệnh giá 500.000 đồng được phát hành vào ngày 17 tháng 12 năm 2003
Vì sao nhà nước ta không in thật nhiều tiền?
Chắc hẳn đây cũng là vấn đề được nhiều người quan tâm tìm hiểu. Và chắc chắn sẽ có lý do để ngân hàng không thể in tiền một cách tùy tiện bạn nhé.
Việc tiền bị hạn chế phát hành về số lượng để đảm bảo những mục đích sau:
- Bảo vệ giá trị của đồng polymer Việt Nam, tránh tối đa lạm phát xảy ra, lúc đó giá trị của đồng tiền sẽ cao hơn.
- Thúc đẩy trao đổi hàng hóa có sử dụng đồng tiền làm trung gian như các trao đổi mua bán. Và chính điều này sẽ hỗ trợ để thúc đẩy sự phát triển về kinh tế, xây dựng đất nước giàu mạnh và bền vững hơn.
- Ngân hàng phát hành tiền với hạn mức và số lượng quy định theo các chính sách tiền tệ trong và ngoài nước. Mỗi lần in tiền sẽ phải trải qua những khảo sát, đánh giá và các cuộc họp bàn giữa Ngân hàng, chính phủ và bộ tài chính nhé.
Tờ tiền Polymer Việt Nam có ưu điểm gì so với tiền giấy?
Như đã biết, nhờ những ưu điểm vượt bậc mà polymer được chọn làm vật liệu in tiền tại Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về những ưu điểm ấy, hãy cùng 3Gang tìm hiểu về những đặc điểm nổi bật của tờ tiền polymer Việt Nam ngay dưới đây bạn nhé:
Tăng tính thẩm mỹ so với loại tiền cũ
Những tờ tiền Polymer không chỉ nổi bật với chất liệu đặc biệt mà còn có màu sắc sặc sỡ, bắt mắt. Vì vậy nó tạo nên những nét đẹp mới cho đồng tiền Việt Nam ta. Không chỉ vậy mà với những ưu điểm về chất liệu mà polymer mang lại cũng làm tăng khả năng thích ứng cho tờ tiền đối với các thiết bị xử lý hiện đại như máy ATM, máy đếm tiền,…
Độ bền cao
Chắc hẳn, khi nói tới tiền polymer thì độ bên cao là một trong những yếu tố được nhắc đến hàng đầu. Nó sở hữu độ bền cơ học cao nên rất ít khi bị rách, nát và đặc biệt là không bị thấm nước. Người ta đã chứng minh loại tiền polymer này có độ bền cao gấp 3 đến 4 lần so với loại tiền giấy truyền thống.
An toàn đối với người sử dụng
Loại tiền polymer được phủ bởi một lớp vecni có khả năng chống ẩm cao. Ngoài ra, nó còn giúp tờ tiền không bị dính bẩn trong quá trình sử dụng. Nhờ đó mà tờ tiền vẫn giữ được độ sạch nhất định cũng như hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe người dùng. Tiền polymer rất phù hợp với môi trường và tính chất khí hậu khắc nghiệt tại Việt Nam.
Chống tiền giả, tiền nhái
Chất liệu polymer là một lựa chọn phù hợp để giảm thiểu các trường hợp làm giả làm nhái tiền bất hợp pháp. Đây cũng chính là điểm cộng giúp nâng cao chất lượng tiền cũng như bảo vệ lợi ích của người sử dụng. Nhờ chất liệu polymer này mà ta có thể dễ dàng phân biệt được tiền thật với tiền giả chỉ bằng những cái chạm tay.
Cách thức nhận biết tiền Polymer thật giả
Dù được in với công nghệ cao nhưng vẫn khó tránh được trường hợp tiền Polymer bị làm giả, làm nhái. Vậy cách phân biệt tiền Polymer thật giả như thế nào? Dưới đây là một số cách phổ biến mà bạn đọc cần chú ý:
Dùng tay vò tiền
Tiền polymer thật thường có độ bền cơ học rất cao, vì thế khi chúng ta dùng tay vò đồng tiền và thả ra sẽ thấy đồng tiền có sự đàn hồi nhanh chóng, không bị nát. Còn tiền giả sẽ không thể ngay lập tức trở về trạng thái như ban đầu được.
Dùng ánh sáng để soi tiền
Một kỹ thuật mà chỉ có tiền Polymer thật mới có được đó là cách in chìm, cụ thể khi ánh sáng soi vào tờ tiền thật bạn sẽ thấy được:
- Tiền polymer với mệnh giá 20.000 đồng đến 500.000 đồng khi soi dưới ánh sáng sẽ thấy chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Tiền polymer mệnh giá 10.000 đồng khi soi dưới ánh sáng sẽ thấy hình ảnh của chùa một cột.
Và các loại tiền giả thì không thể làm được điều này.
Các yếu tố in nổi trên đồng tiền
Các yếu tố in nổi đặc trưng của tiền Polymer thật mà bạn có thể nhìn thấy đó là:
- Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Quốc huy
- Dòng chữ “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”
- Mệnh giá bằng số và bằng chữ
Khi bạn sờ vào các yếu tố in nổi này sẽ thấy cảm giác bị nhám tay còn tiền giả thì sẽ cảm thấy trơn.
Kiểm tra tiền thật bằng các ô trong suốt
Ở góc đồng tiền Polymer sẽ có các ô trong suốt, đối với tiền Polymer thật khi nhìn xuyên qua ta sẽ thấy hình ẩn xung quanh nguồn sáng và mỗi mệnh giá tiền sẽ có một hình ảnh đặc trưng riêng.
Dùng máy soi tiền
Đây là biện pháp chắc chắn nhất để phát hiện tiền thật giả, tuy nhiên máy soi tiền chỉ được trang bị ở ngân hàng hay một số cửa hàng vàng bạc lớn.
Mẹo giúp bạn phân biệt tiền giả và tiền thật bằng tay hoặc mắt thường
Để tránh rủi ro do nhận phải tiền giả, bạn cần nắm rõ các đặc điểm của đồng tiền và tạo cho mình thói quen kiểm tra đồng tiền khi giao dịch. Dưới đây là một số cách kiểm tra tiền bằng tay hoặc mắt thường để phân biệt tiền thật, tiền giả nhanh chóng:
- Soi tờ tiền trước nguồn sáng.
- Vò tiền trong lòng bàn tay.
- Vuốt nhẹ tờ tiền để kiểm tra độ nhám trên tiền thật và tiền giả.
- Kiểm tra các cửa sổ trong suốt để nhận biết tiền thật.
- Nghiêng qua nghiêng lại tờ tiền để phân biệt thật giả.
Luật bảo vệ đồng tiền Việt Nam như thế nào?
Đồng tiền quốc gia được pháp luật bảo vệ một cách chặt chẽ. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định xử lý các hành vi liên quan đến đồng tiền tại Điều 31 Nghị định 88/2019/NĐ-CP cụ thể như sau:
- Phạt cảnh cáo đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
Không thông báo kịp thời cho các cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện thấy tiền giả
Không thông báo kịp thời cho các cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện dấu hiệu tàng trữ, lưu hành, vận chuyển tiền giả
Không giao nộp tiền giả theo đúng quy định của pháp luật.
- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm dưới đây:
Phát hiện tiền giả nhưng không thực hiện thu giữ;
Phát hiện tiền nghi giả nhưng không thực hiện tạm giữ;
Không lập biên bản hoặc không thu giữ tiền giả, không đóng dấu, bấm lỗ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về xử lý tiền giả, tiền nghi giả
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi phá hoại hay hủy hoại tiền Việt Nam trái pháp luật.
- Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi sao chụp, in ấn, sử dụng bố cục, một phần hoặc toàn bộ hình ảnh, chi tiết, hoa văn của tiền Việt Nam mà không đúng quy định của pháp luật.
Trên đây là toàn bộ thông tin mà 3Gang muốn gửi đến bạn đọc về đồng tiền Việt Nam. Hy vọng qua bài viết, bạn đọc sẽ hiểu hơn về lịch sử đồng tiền Việt Nam ta, học được cách thức phân biệt tiền thật giả cũng như trân trọng hơn về đồng tiền nước mình. Chúng tôi mong rằng quý bạn đọc sẽ sử dụng đồng tiền một cách đúng đắn để ra những giá trị tốt đẹp giúp đất nước Việt Nam ta phát triển và giàu mạnh hơn. Cuối cùng, 3Gang chân thành cảm ơn bạn đọc đã dành thời gian theo dõi bài viết của chúng tôi!