Khủng hoảng tài chính 1997 là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan sau đó ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán, đến trung tâm tiền tệ lớn, và ảnh hưởng sâu sắc đến giá cả của tài sản khác ở vài nước châu Á khác, nhiều quốc gia trong đó đã được coi như là “những con Hổ Đông Á”. Cuộc khủng hoảng tài chính 1997 này còn thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ châu Á hay khủng hoảng tài chính Châu Á.
Những nước bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất bởi cuộc khủng hoảng tài chính 1997 này phải kể đến Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan. Song song đó một số nước như Hồng Kông, Malaysia, Lào, hay Philippines cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự sụt giá đột ngột. Về phía Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, hay Singapore và Việt Nam thì cũng bị ảnh hưởng tuy nhiên không quá lớn. Tại Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều do sự khủng hoảng, nhưng nền kinh tế Nhật đã phải vượt qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân nước này.
Cho dù được gọi là cơn khủng hoảng “Đông Á” với lý do cuộc khủng hoảng tài chính 1997 được bắt nguồn từ Đông Á, nhưng những ảnh hưởng của nó thì lại lan truyền ra toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính nghiêm trọng trên toàn cầu, cùng với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước khác như Nga, Brazil và Hoa Kỳ.
1. Nguyên nhân gây nên khủng hoảng tài chính 1997
Khủng hoảng tài chính 1997 xảy ra do rất nhiều những nguyên nhân, sau đây là những nguyên nhân chủ yếu mà 3Gang sẽ chia sẻ đến bạn đọc:
1.1 Do nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém
Tại Thái Lan và một số nước thuộc khu vực Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện điều mà các nhà kinh tế gọi là “Bộ ba chính sách không thể đồng thời”. Họ đã vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào đồng Dollar Mỹ, vừa cho phép sự tự do lưu chuyển vốn, tự do hóa cả tài khoản vốn. Trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990, nền kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Và để bảo vệ tỷ giá được cố định, thì các ngân hàng trung ương Đông Nam Á cũng đã tiến hành thực hiện các chính sách nới lỏng tiền tệ. Kết quả của các chính sách này là cung tiền tăng gây ra sức ép về lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa – sterilization policy cũng đã được áp dụng để chống tình trạng lạm phát mô hình chung đẩy mạnh những dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, thì ở Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ việc đồng Won của Hàn Quốc không ngừng tăng giá với đồng Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này đã làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc tăng trên thị trường hàng hóa quốc tế. Trong hoàn cảnh này, Hàn Quốc lại đang theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và các chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì vậy, thâm hụt tài khoản vãng lai đã được bù đắp lại bằng việc một số ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài và phần lớn là đi vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
Vào năm 1994, một nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, cho đăng bài báo tấn công về ý tưởng “thần kỳ kinh tế Đông Á”. Ông đã cho rằng: Sự tăng trưởng kinh tế của Đông Nam Á, trong quá khứ, đó là do kết quả của việc đầu tư theo hình thức tư bản, mang tới sự tăng năng suất lao động. Trong khi đó, tỷ lệ năng suất tổng nhân tố lại chỉ được nâng lên với một mức độ rất nhỏ, hoặc hầu hết vẫn giữ nguyên. Nhà kinh tế Krugman cho rằng việc nếu chỉ tăng trưởng năng suất tổng nhân tố không thôi không cần đầu tư vốn, đã có thể mang lại được sự thịnh vượng dài hạn. Ông có thể được nhiều người coi như là một nhà tiên tri sau khi khủng hoảng tài chính lan rộng ra toàn cầu, tuy nhiên chính ông ta lại cũng đã từng phát biểu rằng ông ta không hề dự đoán cơn khủng hoảng hoặc nhìn trước được chiều sâu của cuộc khủng hoảng tài chính 1997 này.
1.2 Do những dòng vốn nước ngoài kéo vào
Việc tự do hóa tài chính ở Mỹ cùng với chính sách tiền tệ nới lỏng ở châu Âu và Nhật Bản vào cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nên tăng cao quá mức. Nhiều nhà đầu tư ở những trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới đã tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển đổi vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, một số nước châu Á lại chọn thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Mức lãi suất ở những nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì vậy, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào những nước châu Á.
Bên cạnh đó, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những biện pháp bảo hộ ngầm của chính phủ cho những thể chế tài chính đã góp phần làm cho các công ty ở châu Á bất chấp sự mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi đó các ngân hàng thì bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và vay nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
1.3 Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
Một trong số các nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi những nước châu Á.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên cuối cùng cũng được bộc lộ ra. Thị trường bất động sản của Thái Lan khi đó đã vỡ. Một số thể chế tài chính cũng bị phá sản. Người ta không còn tin vào chính phủ rằng sẽ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định nữa. Khi phát hiện ra những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của những nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô cũng đã tiến hành tấn công vào tiền tệ châu Á. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra khỏi.
Một trong số nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng tài chính 1997 đó là năng lực xử lý khủng hoảng còn rất yếu kém. Cụ thể nhiều nhà kinh tế đã cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á cần phải làm là thả nổi đồng tiền của mình lập tức chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến khi cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối của nhà nước mà lại càng làm cho sự tấn công đầu cơ thêm kéo dài hơn.
Ngoại trưởng 9 nước của khối ASEAN khi đó Campuchia chưa gia nhập, lúc đó đã tin rằng, việc liên kết những hệ thống tiền tệ chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm mục đích củng cố vững chắc các nền kinh tế khối ASEAN. Và hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 đã diễn ra tại Subang Jaya, Malaysia cũng đã thông quan một Tuyên bố chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 cụ thể đã nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu gọi những nước ASEAN cần phải hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường những lợi ích của ASEAN trong giai đoạn khủng hoảng này. Ngẫu nhiên là trong cùng ngày đó, những Ngân hàng Trung ương của hầu hết các nước đang chịu tác động của khủng hoảng đã có cuộc gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao Đông Nam Á Thái Bình Dương EMEAP, và đã thất bại trong việc đưa ra một biện pháp là dàn xếp cho vay mới. Trước đó một năm thì Bộ trưởng Tài chính của những nước này cũng đã tham dự cùng nhau tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo như những tuyên bố chung, thì các bên đã không thể nào nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định chung về việc cho vay và những Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp này. Do đó, cuộc khủng hoảng đã có thể xem như một thất bại trong việc xây dựng những năng lực phù hợp kịp thời, sự thất bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo về tiền tệ.
Bên cạnh đó nhiều nhà kinh tế lại chỉ trích các chính sách thắt chặt tài chính của IMF được áp dụng ở các nước đang xảy ra khủng hoảng càng làm cho tình hình khủng hoảng thêm trầm trọng.
2. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính 1997
2.1 Diễn biến khủng hoảng tại Thái Lan
Từ những năm 1985 đến năm 1995, thì nền kinh tế Thái Lan đang tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Đến cuối năm 1996, các báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo rằng nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và những bong bóng kinh tế có thể sẽ không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thì thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có những sự điều chỉnh về cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn các chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống.
Từ ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng tiền chung baht Thái đã bị tấn công đầu cơ với quy mô lớn. Vào ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh đã tuyên bố sẽ không phá giá đồng baht, song rốt cục họ lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Đồng Baht ngay lập tức mất giá giảm gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, đồng Baht đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 đồng dollar Mỹ. Các chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 điểm cuối năm 1995 xuống còn 372 điểm cuối năm 1997. Đồng thời, các mức vốn hóa thị trường vốn cũng giảm từ 141,5 tỷ USD xuống chỉ còn 23,5 tỷ USD. Finance One, một công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan cũng đã bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố rằng sẽ cung cấp một gói cứu trợ với trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF cũng thông qua một gói cứu trợ nữa với trị giá 3,9 tỷ dollar.
2.2 Diễn biến khủng hoảng tại Philippines
Ngay sau khi cuộc khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, thì vào ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã có động thái cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối với mục đích bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (đây là lãi suất cho vay qua đêm) từ mức 15% lên mức 24%. Nhưng đồng peso vẫn mất giá rất nghiêm trọng, từ 26 peso được một dollar xuống chỉ còn 38 vào năm 2000 và còn 40 peso được 1 đồng dollar vào cuối khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng tài chính 1997 ngày càng nghiêm trọng thêm do những khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, các Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines cũng giảm xuống chỉ còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997 điều này đã kéo theo việc đồng peso càng thêm mất giá.
Khi đó giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi kể từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống của nước này.
2.3 Diễn biến khủng hoảng tại Hồng Kông
Vào tháng 10 năm 1997, đồng Dollar Hồng Kông cũng bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo vào đồng Dollar Mỹ với tỷ giá là 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tình trạng lạm phát ở Hồng Kông lại đang cao hơn ở Mỹ. Đây chính là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công vào. Nhờ có nguồn dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD tại thời điểm đó tương đương với 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên các Cơ quan Tiền tệ Hồng Kông đã dám chi mạnh hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của nước mình. Các thị trường chứng khoán thì ngày càng trở nên dễ đổ vỡ hơn. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm tới 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hồng Kông cũng đã nâng lãi suất cho vay qua đêm từ mức 8% lên thành 23% và ngay lập tức đã tăng vọt lên 500%.
Những hoạt động đầu cơ nhằm vào đồng Dollar Hồng Kông và nhằm vào thị trường chứng khoán của đặc khu này cũng đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu là do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi các chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và chính bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở nước Nga.
Tỷ giá neo giữa đồng Dollar Hồng Kông và đồng Dollar Mỹ vẫn đang được bảo toàn ở mức 7,8: 1.
2.4 Diễn biến khủng hoảng tại Hàn Quốc
Cùng với thời điểm khủng hoảng tài chính 1997 bùng phát ở Thái Lan, thì ở Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Những công ty nợ ngân hàng trong nước, còn các ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ khi đó đã xảy ra. Khi thị trường ở châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 nhiều nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc với quy mô lớn. Đến ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá mức tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống thành A3, và sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống thành B2. Điều đó góp phần làm cho giá của thị trường chứng khoán Hàn Quốc càng thêm giảm giá. Riêng chỉ trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul đã tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tiếp tục tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng những chính sách khắc khổ.
Trong thời điểm đó thì đồng Won của Hàn Quốc giảm giá xuống chỉ còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD.
2.5 Diễn biến khủng hoảng tại Malaysia
Ngay sau khi ở Thái Lan thả nổi đồng Baht vào ngày 2 tháng 7 năm 1997, thì đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán ở Kuala Lumpur cũng ngay lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Đồng Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit đổi 1 đồng Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit đổi 1 đồng Dollar. Phần lớn những sức ép giảm giá đối với Ringgit đến từ việc buôn bán đồng tiền Ringgit này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Nhiều người tham gia thị trường tiền để duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái khối lượng bán ra nhiều hơn với khối lượng mua vào với dự tính về sự giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là mức lãi suất trong nước của Malaysia lại tiếp tục giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đã đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba của năm 1997.
2.6 Diễn biến khủng hoảng tại Indonesia
Vào tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng tiền Baht, các cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia cũng đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa đồng Rupiah và đồng Dollar Mỹ từ 8% lên đến 12%. Đến tháng 8, thì đồng Rupiah bị các giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý đã được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục bị mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ hỗ trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng đồng Rupiah vẫn tiếp tục mất giá do đồng Rupiah khi đó bị bán ra ồ ạt và lượng cầu của đồng Dollar Mỹ ở Indonesia đã tăng vọt. Đến tháng 9, cả giá của đồng Rupiah lẫn chỉ số của thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp của lịch sử.
Đồng Rupiah mất giá làm suy yếu đến bảng cân đối tài sản của nhiều công ty tại Indonesia, đặc biệt là làm cho các món nợ ngân hàng nước ngoài của những công ty này tăng lên. Với tình hình đó, nhiều công ty cũng đẩy mạnh việc mua đồng Dollar vào điều này có nghĩa là bán đồng Rupiah ra đã khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát ngày càng tăng vọt.
Tình trạng lạm phát tăng tốc cùng với các chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF đã khiến chính phủ phải bỏ trợ giá về lương thực và xăng đã khiến cho giá của hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động về tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng chỉ ở Jakarta đã có tới 500 người đã chết do bạo động này. Khủng hoảng kinh tế tài chính và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới cuộc khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto đã buộc phải từ chức tổng thống.
Trước những khủng hoảng này, tỷ giá hối đoái giữa đồng Rupiah và đồng Dollar vào khoảng 2000: 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng đó, tỷ giá đã giảm xuống mức còn 18.000: 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và với nhiều nhân tố khác nhau, GDP theo đồng Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi.
3. Những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính 1997
Khủng hoảng tài chính 1997 đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô vô cùng nghiêm trọng, bao gồm mất giá về tiền tệ, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở nhiều nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp đã bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo, thất nghiệp trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất do cuộc khủng hoảng tài chính này là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
Khủng hoảng tài chính 1997 còn dẫn tới tình trạng mất ổn định chính trị với sự ra đi của Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan và Suharto ở Indonesia. Tâm lý chống phương Tây ngày càng gia tăng cùng với những sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và nhằm vào Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Một trong số những ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng nhất đó là GDP và GNP bình quân đầu người tính bằng đồng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương cũng giảm đi. Nội tệ mất giá cũng là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Factbook đã cho biết rằng mức thu nhập bình quân đầu người tại Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD vào năm 1997 xuống chỉ còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia thì giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia cũng giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD.
Cuộc khủng hoảng tài chính 1997 không chỉ lây lan ở khu vực Đông Nam Á mà nó góp phần to lớn dẫn tới khủng hoảng tài chính ở Nga và khủng hoảng tài chính ở Brazil. Một số nước may mắn không bị khủng hoảng, nhưng nền kinh tế cũng ít nhiều chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI vào cũng giảm.
4. Ý nghĩa của cuộc khủng hoảng tài chính 1997
Khủng hoảng tài chính 1997 làm nhiều người nhận thức rõ hơn về sự cần thiết phải có một hệ thống tài chính – một hệ thống ngân hàng vững mạnh và minh bạch. Điều đó thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế cần đổi mới các quy chế về ngân hàng và những tổ chức tín dụng nói chung.
Chính phủ nhiều nước đang phát triển cũng cho rằng các dòng vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài và vốn vay ngân hàng nước ngoài cũng đem lại những tác động bất lợi cho nền kinh tế của họ. Vì vậy, nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế nhằm mục đích điều tiết các dòng vốn này.
Ngoài ra, những thỏa thuận ở cấp khu vực với mục đích phát triển một hệ thống phòng ngừa khủng hoảng tái diễn cũng đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như việc Sáng kiến Chiang Mai, hay như Tiến trình Đánh giá và Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến Thị trường Trái phiếu châu Á,…
Về khía cạnh học thuật, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự hạn chế của những mô hình lý luận về cuộc khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc giải thích rõ nguồn gốc và sự lây lan của cuộc khủng hoảng tài chính 1997 này. Đã có rất nhiều nỗ lực nhằm đưa ra một mô hình mới về việc khủng hoảng tiền tệ, chẳng hạn như các mô hình phương pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản, mô hình lý thuyết bong bóng, lý thuyết về nguồn gốc của khủng hoảng từ chính sách tài chính và các chính sách tiền tệ.
5. Những biện pháp khôi phục nền kinh tế sau khủng hoảng
Để khôi phục được nền kinh tế và ngăn ngừa việc khủng hoảng tái diễn, thì những nền kinh tế Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng đều đã tiến hành các cuộc cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: việc cải tổ cách thức quản lý trong khu vực của doanh nghiệp, cải cách mô hình tài chính, đẩy mạnh việc hội nhập quốc tế, đổi mới các phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô, và đổi mới cả những phương thức tăng trưởng kinh tế.
5.1 Biện pháp đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô
Tại Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia các nước này đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái khá là linh hoạt với các cơ chế ổn định về giá cả. Cụ thể, tại các nước này đã từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và sẽ hướng tới chế độ mục tiêu lạm phát. Theo đó, nhiều nước nỗ lực gia tăng lượng dự trữ ngoại hối của nhà nước mình. Từ năm 1997 đến 2005, năm nước bị ảnh hưởng nặng nhất của cuộc khủng hoảng đã tăng lượng dự trữ ngoại hối của mình lên gấp bốn lần, đạt 378 tỷ USD.
5.2 Biện pháp cải cách khu vực tài chính
Các nước Đông Nam Á đã thực thi nhiều biện pháp, nhiều chính sách sau với mục đích cải cách khu vực tài chính như:
- Xóa và tiến hành giảm nợ xấu, tái cơ cấu vốn hóa các thể chế tài chính.
- Tiến hành đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ.
- Gia tăng sự giám sát và áp dụng những tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối với những tổ chức tín dụng và tài chính khác.
- Tích cực đẩy mạnh chuyên môn hóa các thể chế về tài chính.
- Tăng cường việc giám sát và điều tiết những tổ chức tín dụng đồng thời đẩy mạnh nâng cao kỷ luật thị trường.
5.3 Biện pháp cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp
Một số nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện những thủ tục về phá sản, nỗ lực việc tái cơ cấu nợ của các xí nghiệp, đẩy mạnh việc củng cố những quy định và tiêu chuẩn về cáo bạch, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông vừa và nhỏ cũng như nâng cao trách nhiệm và quyền lực của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn về kế toán và kiểm toán theo thông lệ của quốc tế, tăng cường mức vốn tự có cho doanh nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho những hoạt động mua lại và việc sáp nhập kể cả với doanh nghiệp trong nước cũng như với các doanh nghiệp nước ngoài.
5.4 Biện pháp cải cách các thị trường
Phần lớn các nước Đông nam Á đã và đang phát triển về thị trường trái phiếu định danh bằng đồng nội tệ của chính mình. Song song đó là việc cải cách thị trường lao động đã cho phép các xí nghiệp tiến hành tuyển dụng và sa thải lao động được dễ dàng hơn, giúp cho các xí nghiệp của một số nước Đông Nam Á trở nên linh hoạt hơn.
Kết luận
Trên đây là những khái niệm cũng như nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính 1997 mà 3Gang chia sẻ đến bạn đọc. Mong rằng với những thông tin này sẽ mang đến cho bạn đọc những khía cách nhìn khách quan hơn cũng như rút ra những bài học khi đầu tư tài chính sao cho hợp lý.